Tuesday, August 20, 2013

9E



BÀI GIẢNG THỨ CHÍN (9E)






9E/ Ngộ

          1) Ngộ là gì? Ngộ là danh từ bắt nguồn từ tôn giáo. Trong Phật giáo ngộ là nói một người tu luyện hiểu biết về phật pháp, ngộ trên sự nhận thức và ngộ tối cùng, đó có nghĩa là tuệ ngộ. Nhưng hiện nay đã được ứng dụng vào trong người thường rồi, ý nói rằng người này rất thông minh, biết được trong tâm của lãnh đạo đang nghĩ gì, lập tức hiểu biết lĩnh hội được ngay, trước mặt lãnh đạo biết cách làm cho lãnh đạo hài lòng. Người ta cho rằng như thế là ngộ tính tốt, thông thường đều hiểu như vậy. Nhưng chư vị vượt qua khỏi tầng thứ của người thường, trong tầng thứ cao hơn một chút, chư vị sẽ phát hiện rằng, lý mà người thường hiểu, thường thường đều là sai. Ngộ mà chúng tôi nói đây hoàn toàn không phải là ngộ ấy. Ngộ tính của một người khôn khéo bén xảo trái lại là không tốt, vì một người quá thông minh họ biết làm công việc bề mặt, để lấy lòng lãnh đạo hay cấp trên. Thế thì công việc thật sự phải làm không phải là để cho người khác làm sao? Như thế thì họ đã thiếu nợ những thứ của người khác; vì họ khôn khéo, biết lấy lòng người khác, họ có thể được nhiều lợi ích, trong khi người khác thì bị thiệt thòi nhiều; vì họ khôn khéo, cho nên họ cũng không chịu thiệt thòi, họ cũng không dễ gì bị thiệt thòi, như thế thì người khác phải bị thiệt thòi. Họ càng ngày càng xem trọng đến chút lợi ích hiện thật ấy, thì tính tình lòng dạ của họ sẽ ngày càng hẹp hòi, họ càng không thể buông tay làm ngơ được trước những lợi ích vật chất của người thường, họ cũng nhìn nhận là bản thân họ xem trọng hiện thực, họ không chịu thiệt thòi.

          2) Có người còn hâm mộ nữa chứ! Tôi nói với chư vị, đừng nên hâm mộ họ. Chư vị không biết họ sống mệt mỏi đến chừng nào, họ ăn không ngon, ngủ không yên, trong giấc mơ họ cũng sợ lợi ích cá nhân của họ bị mất mát. Đối với lợi ích cá nhân, họ cứ dùi mãi vào sừng bò, chư vị nói xem họ sống như thế có mệt mỏi lắm không, họ chỉ sống vì những điều đó suốt cả một cuộc đời. Chúng tôi nói rằng trước mâu thuẫn, chư vị lùi đi một bước, thì sẽ thấy biển trời mênh mông, bảo đảm là một cảnh tượng khác. Còn người như họ là không chịu lùi bước nhường nhịn, họ sống một cuộc sống mệt mỏi nhất, chư vị không nên học theo họ. Trong giới tu luyện giảng: người như thế đã bị lún sâu trong mê hoặc, hoàn toàn mê lạc trong lợi ích vật chất nơi người thường, bảo họ giữ đức, nói sao dễ vậy! Chư vị bảo họ luyện công, họ sẽ không tin: luyện công là gì? Là người luyện công các anh còn bị đánh không trả tay, bị chửi không trả lời. Người ta bắt nạt trêu chọc các anh, trong tâm của các anh không những không đối xử giống như người ta, mà ngược lại còn phải cám ơn người ta. Mấy người thật là khùng! Là A-khiu! Ai cũng điên cả rồi! Người như thế, họ đối với sự tu luyện là không thể nào hiểu được. Chính họ cho rằng chư vị không thể tưởng tượng được, họ cho chư vị là khờ dại. Chư vị nói xem cứu độ họ có khó không?

          3) “Ngộ” mà chúng tôi giảng không phải là ngộ đó. Chính là cái mà người ta cho là chúng ta khờ dại trước những lợi ích cá nhân, chúng tôi giảng là ngộ này. Đương nhiên cũng không phải là khờ thật sự, chúng ta chỉ xem nhẹ những vấn đề lợi ích thiết thân, còn các phương diện khác, chúng ta đều rất tinh khôn sáng suốt. Chúng ta nghiên cứu một môn khoa học nào, nhận nhiệm vụ từ lãnh đạo giao phó, hay hoàn thành bất cứ công việc gì, chúng ta đều sáng suốt rõ ràng minh bạch hoàn thành một cách tốt đẹp. Chỉ riêng có lợi ích cá nhân của chính mình, khi gặp các mâu thuẫn xung đột giữa người và người thì chúng ta xem nhẹ. Ai còn nói chư vị khờ? Ai cũng không nói chư vị khờ cả, bảo đảm là như thế.

          4) Chúng ta hãy nói đến người khờ thật khờ này, lý này tại tầng thứ cao thì hoàn toàn trái ngược lại. Một người khờ giữa người thường không dễ gì làm điều xấu to lớn, không dễ gì vì lợi ích cá nhân mà đi tranh đi giành, không cầu danh, họ không bị tổn đức. Nhưng người khác lại cho họ đức, đánh họ, mắng chửi họ, đều cho họ đức, loại vật chất đức này vô cùng trân quí. Trong vũ trụ này của chúng ta là có lý như thế này: người không mất thì không được, được thì phải mất. Người ta thấy người khờ khạo này, đều muốn mắng họ: đồ thằng khờ nhà mi! Khi mở miệng mắng câu này, theo đó một mảnh đức bay sang bên kia. Chư vị là người chiếm phần hơn thì thuộc về phía được, như vậy chư vị phải bị mất. Đi ngang qua đá anh ta một đá: đồ thằng khờ nhà mi. Tốt, một mảnh đức lại ném mạnh sang bên kia. Ai bắt nạt anh ta, ai đá anh một đá, anh cũng cười khì khì: hãy đến đây đi, đằng nào cũng cho tôi đức mà, tôi không từ chối đâu! Như thế theo lý ở tầng thứ cao, mọi người nghĩ xem, ai khôn? Không phải người này khôn sao? Người này khôn nhất. Họ không mất một chút đức nào cả, chư vị ném đức sang cho họ, họ một chút cũng không từ chối, đón nhận tất cả, cười khì khì nhận tất cả. Kiếp này khờ kiếp sau không khờ, nguyên thần không khờ. Trong tôn giáo giảng rằng, ai có đức nhiều đời sau sẽ làm quan to, phát tài nhiều, tất cả đều được trao đổi bằng đức của con người.

          5) Chúng tôi giảng, đức có thể được trực tiếp diễn hóa thành công. Chư vị tu được cao bao nhiêu, không phải là do chất đức này của chư vị diễn hóa ra hay sao? Nó được trực tiếp diễn hóa ra thành công. Quyết định tầng thứ cao thấp của một người, công mà biểu thị cho công lực cao hay thấp, không phải là do chất đức này diễn hóa thành hay sao? Chư vị nói xem đức có trân quý không? Chất đức đó là sinh được đem đến, chết được đem theo. Trong Phật giáo giảng, chư vị tu luyện cao bao nhiêu, đó là quả vị của chư vị. Chư vị bỏ ra bao nhiêu, thì nhận lấy bấy nhiêu, đó chính là đạo lý này. Trong tôn giáo giảng: có đức, kiếp sau làm quan to, phát tài nhiều, thiếu đức thì xin ăn cũng không ai cho, vì không có đức để trao đổi, không mất thì không được! Một chút đức cũng không có, thì phải chịu hình thần toàn diệt, một cái chết thật sự.

          6) Trước đây có một thầy khí công, khi mới ra mắt công chúng có tầng thứ tương đối cao, thầy khí công này về sau bị lôi cuốn rơi vào danh lợi, sư phụ của họ bèn mang phó nguyên thần của họ đi, vì cách tu luyện của họ là thuộc về tu luyện phó nguyên thần. Khi phó nguyên thần của họ còn đó, thì họ chịu sự khống chế của phó nguyên thần. Lấy một ví dụ, có một ngày nọ sở làm phân phối nhà ở, người lãnh đạo nói: ai cần nhà ở thì hãy đến đây, trình bày điều kiện hoàn cảnh, xem lý do cần nhà của mỗi người như thế nào. Mọi người ai cũng nêu lên lý do của mình, người này không nói gì cả. Sau cùng người lãnh đạo cứu xét hoàn cảnh người này khó khăn hơn các người khác, cần cung cấp nhà cho người này. Người khác nói: không được, đừng cấp nhà cho ông này, cấp cho tôi, vì tôi cần nhà như thế này, thế này. Anh ta nói: vậy thì anh cứ lấy đi. Theo người thường, thì người này quá khờ. Có người biết anh ta là người luyện công, bèn hỏi anh ta: người luyện công như anh cái gì cũng không muốn, thế anh muốn gì? Anh ta trả lời: điều gì người khác không muốn, thì tôi muốn điều ấy. Thật ra anh ta không khờ chút nào cả, rất tinh khôn. Chỉ với những lợi ích cá nhân thiết thân, mới đối đãi như thế, anh ta tin theo lẽ tự nhiên. Người khác lại hỏi: con người hiện nay có gì mà không muốn? Anh ta nói: hòn đá dưới đất, thiên hạ đá qua đá lại không ai thèm nhặt, thì tôi nhặt hòn đá đó. Người thường cảm thấy không tưởng tượng được, người thường không thể nào hiểu được người luyện công, không cách nào hiểu được, là vì cảnh giới tư tưởng hai bên cách nhau quá xa, tầng thứ cách nhau quá xa. Đương nhiên anh ta sẽ không nhặt hòn đá đó, anh ta nói lên lý mà một người thường không ngộ ra được: tôi không cầu những thứ gì của người thường. Còn nói về hòn đá đó, mọi người đều biết trong kinh phật có viết: trên Cực Lạc thế giới cây bằng vàng, mặt đất bằng vàng, chim bằng vàng, hoa bằng vàng, nhà cửa cũng bằng vàng, ngay cả phật thể cũng bằng vàng sáng chói lấp lánh. Đến nơi đó không thể tìm được một hòn đá, nghe nói tiền ở đó là đá. Đương nhiên họ sẽ không mang hòn đá lên trên đó, nhưng họ nói ra một lý như vậy, người thường không hiểu được. Thật sự người luyện công nói rằng: người thường có được những cái mà người thường truy cầu, chúng tôi không truy cầu, những cái mà người thường có chúng tôi cũng không thèm; nhưng những gì chúng tôi có, người thường có muốn cũng không có được.

          7) Thật ra, ngộ mà chúng tôi vừa giảng đó, còn là thuộc về một loại ngộ ở trong quá trình tu luyện, nó vừa vặn trái ngược với loại ngộ trong người thường. Ngộ chân chính mà chúng tôi nói, chính là chúng ta trong quá trình tu luyện đối với pháp mà Sư phụ giảng, đạo mà Sư phụ trong Đạo gia giảng, tại trong quá trình tu luyện chúng ta gặp phải những ma nạn, có ngộ được mình là người tu luyện hay không, có hiểu thấu được không, có tiếp nhận được không, có tuân theo pháp mà hành trong quá trình tu luyện đuợc hay không. Có người dù chư vị nói thế nào đi nữa dứt khoát họ cũng không tin, vẫn là lợi ích cá nhân trong người thường là thiết thật hơn. Họ ôm chặt quan niệm cố hữu không buông thả, khiến cho họ không thể tin được nữa. Có người chỉ muốn trị bệnh, tại đây tôi giảng khí công hoàn toàn không phải là dùng để trị bệnh, thì tư tưởng của họ cảm thấy không đồng ý, vì thế mà những gì tôi giảng sau đó thì họ không tin nữa.

          8) Có những người ngộ tính của họ không cách nào lên được, có người còn tùy tiện gạch gạch vẽ vẽ trong sách này của tôi. Những ai trong chúng ta có thiên mục đã khai mở, đều thấy quyển sách này màu sắc tuyệt đẹp, sáng lấp lánh ánh vàng kim, mỗi một chữ đều là hình tượng pháp thân của tôi. Nếu tôi nói không thật thì hóa ra đánh lừa mọi người, đường gạch vẽ kia của chư vị là đen tối, chư vị lại dám tùy tiện gạch bừa bãi lên đó sao? Chúng tôi đang làm gì đây? Không phải là dẫn chư vị tu lên hay sao? Có những điều chư vị cần phải suy nghĩ đôi chút. Quyển sách này có thể chỉ đạo cho chư vị tu luyện, chư vị không nghĩ rằng sách này trân quý lắm sao? Chư vị lạy phật có giúp chư vị chân chính tu luyện được không? Chư vị rất thành tâm, không dám chạm nhẹ vào tượng phật, hằng ngày thắp nhang lễ phật, vậy mà Đại Pháp thật sự chỉ đạo được chư vị tu luyện, chư vị lại dám đi bôi bác.

          9) Giảng về vấn đề ngộ tính của con người, đây là nói về trong quá trình tu luyện, những điều xuất hiện trong các tầng thứ hoặc là những điều gì, pháp nào đó mà sư phụ đã giảng, chư vị đã hiểu chúng ở thành độ nào. Nhưng vẫn chưa phải là ngộ căn bản mà chúng tôi nói đây, ngộ căn bản mà chúng ta nói đây là trong suốt cuộc đời của họ, từ khi bắt đầu tu luyện, không ngừng đề cao thăng hoa lên, không ngừng vứt bỏ tâm chấp trước của con người, các loại dục vọng, công cũng không ngừng tăng trưởng lên, sau cùng đi thẳng đến bước cuối cùng của sự tu luyện. Vật chất đức đó đã hoàn toàn diễn hóa thành công, hành trình tu luyện mà Sư phụ đã an bài đã đi đến cuối, trong tích tắc ấy, “Cắc” nổ tung tất cả khóa ra. Thiên mục khai mở đến điểm cao nhất tại tầng thứ sở tại của họ, thấy được chân tướng của các không gian tại tầng thứ sở tại của họ, hình thức tồn tại của các sinh mệnh thể tại các thời không, hình thức tồn tại của vật chất trong các thời không, nhìn thấy được chân lý trong vũ trụ chúng ta. Thần thông đại hiển, đều có thể câu thông được với các loại sinh mệnh thể khác. Khi đến bước này người này còn không phải là một Đại giác hay sao? Là người đã tu luyện giác ngộ phải không? Dịch ra cổ văn Ấn Độ đó chính là phật.

          10) Ngộ mà chúng tôi giảng đây, loại ngộ căn bản này còn là thuộc về hình thức đốn ngộ. Đốn ngộ là tất cả đều khoá lại trong suốt cuộc đời tu luyện của họ, không biết công của mình cao bao nhiêu, không biết hình thái của công luyện được của mình là như thế nào, hoàn toàn không nhận một phản ứng nào, thậm chí cả tế bào trong thân thể của mình cũng bị khóa lại, công luyện được cũng bị khóa lại, cho đến bước cuối cùng của sự tu luyện thì mới được mở ra. Điều này cần phải là người có đại căn khí mới làm được như thế, tu luyện như vậy là rất khổ. Bắt đầu từ làm một người tốt, một mực đề cao tâm tính của chính mình, một mực chịu khổ, một mực tu lên, một mực yêu cầu đề cao tâm tính, nhưng lại không thấy được công của mình. Người như vậy khó tu nhất, bắt buộc phải là người có đại căn khí, tu biết bao nhiêu năm, vẫn không biết gì cả.

          11) Còn một loại ngộ gọi là tiệm ngộ. Ngay từ đầu nhiều người đã cảm nhận được sự xoay chuyển của Pháp luân, đồng thời tôi cũng khai mở thiên mục cho mọi người. Có người vì nhiều nguyên nhân khác nhau, từ chỗ không nhìn thấy cho đến tương lai cũng nhìn thấy được, từ nhìn thấy lờ mờ cho đến nhìn thấy rõ ràng, từ không biết sử dụng đến biết sử dụng, tầng thứ đang không ngừng đề cao. Tùy theo sự đề cao tâm tính của chư vị và sự vứt bỏ các tâm chấp trước, đủ loại công năng sẽ xuất ra ngoài. Sự diễn biến của toàn quá trình tu luyện, quá trình chuyển hóa của thân thể, đều đang biến đổi trong tình huống mà chư vị thấy được hoặc cảm nhận được. Sẽ tiếp tục như thế cho đến bước cuối cùng, hoàn toàn nhận thức được chân lý của vũ trụ, tầng thứ đã đạt đến điểm cao nhất mà chư vị tu luyện phải được đạt đến. Sự biến hóa của bản thể, sự gia trì công năng đều đạt đến thành độ nhất định, dần dần từng buớc đạt đến mục đích này. Đó là thuộc về tiệm ngộ. Phương pháp tu luyện tiệm ngộ này cũng không phải là dễ, có công năng rồi, tâm chấp trước của một số người còn chưa vứt bỏ được, thì rất dễ khoe khoang, thì rất dễ đi làm những việc xấu. Như vậy công của chư vị sẽ rơi mất, chư vị tu cũng như không, cuối cùng sẽ bị hủy đi. Có những người nhìn thấy được, có thể nhìn thấy được sự hiển hiện của các sinh mệnh thể tại các tầng thứ khác nhau, họ có thể kéo chư vị làm điều này điều nọ, họ có thể bảo chư vị tu luyện những thứ của họ, nhận chư vị làm đồ đệ, nhưng họ không thể giúp chư vị đạt được chính quả, vì chính họ cũng chưa đạt được chính quả.

          12) Ngoài ra, người ở không gian cao tầng đều là thần, biến được thật lớn, thần thông đại hiển, tâm mà không ngay chính, chư vị có đi theo họ hay không? Chư vị vừa đi theo họ, lập tức sự tu luyện cũng như không. Dù họ là chân phật, chân đạo, chư vị cũng phải tu luyện lại từ đầu. Người trên bao nhiêu tầng trời, đó không phải đều là thần tiên sao? Chỉ có tu luyện đến tầng thứ cực cao, khi đạt đến mục đích rồi, thì mới hoàn toàn nhảy vượt ra được. Nhưng, dưới mắt của người bình thường vị thần tiên hiện ra cho thấy, xác thật là vừa cao vừa lớn, bản lĩnh cũng rất lớn, nhưng họ không nhất định đạt được chính quả. Dưới sự can nhiễu của các loại tín hiệu, dưới sự cám dỗ mê hoặc của các cảnh tượng, tâm chư vị có thể nào không bị lay động? Vì thế nên nói thiên mục khai mở rồi tu cũng khó, tâm tính càng khó giữ vững hơn. Nhưng may mà nhiều người trong chúng ta là thuộc loại đến giữa đường mới khai mở công năng cho chư vị, tiến nhập vào trạng thái tiệm ngộ. Thiên mục của mọi người đều được khai mở, công năng của nhiều người thì không để cho xuất ra, sau khi tâm tính của chư vị dần dần, dần dần đề cao đến một tầng thứ nhất định, tâm thái ổn định, khi tự chủ được bản thân mình rồi, sau đó ngay lập tức làm nổ tung để khai mở ra cho chư vị. Đến trong tầng thứ đó cho phép chư vị xuất hiện trạng thái tiệm ngộ, lúc bấy giờ có thể tự chủ dễ dàng hơn, các loại công năng đều xuất hiện ra, tự mình tiếp tục tu lên, cho đến cuối cùng hoàn toàn khai mở. Tu đến nửa đường thì cho phép chư vị xuất hiện, trong chúng ta có nhiều người là thuộc về loại này, do đó đừng nên khao khát được nhìn thấy.

          13) Mọi người có lẽ đã nghe Thiền tông cũng giảng về sự khác biệt giữa đốn ngộ và tiệm ngộ. Lục tổ Huệ Năng của Thiền tông giảng đốn ngộ. Thần Tú ở Bắc phái giảng tiệm ngộ. Giữa hai người này đã xảy ra một cuộc tranh luận một thời gian dài trong lịch sử về vấn đề phật học này, tranh luận qua lại mãi. Tôi nói không có ý nghĩa gì cả. Vì sao? Vì điều mà họ nói chẳng qua chỉ là sự nhận thức đối với một nguyên lý trong quá trình tu luyện, về lý đó, có người nhận thức hiểu ngay tức thời, trong khi người khác từ từ mới ngộ ra, nhận thức được. Ngộ thế nào mà không được? Nhận thức ngay tức thời thì tốt nhất, từ từ ngộ được cũng hay, tất cả đều là ngộ phải không? Đều là ngộ, do đó không ai sai cả.




No comments:

Post a Comment