BÀI GIẢNG THỨ BA (3B)
3B/ Công pháp của Phật Gia và Phật Giáo
1) Công pháp của Phật gia
không phải là Phật giáo, điểm này tôi phải giảng rõ ràng cho mọi người, thật ra,
công pháp của Đạo gia cũng không phải là Đạo giáo. Chúng ta có những người luôn
nhầm lẫn không hiểu rõ về những sự việc này. Có những người là hòa thượng trong
chùa, cũng có một số là cư sĩ, họ cho rằng họ hiểu biết nhiều điều trong Phật
giáo, nên họ hăng hái tuyên truyền những điều trong Phật giáo giữa các học viên
của chúng tôi. Tôi nói với chư vị, chư vị không nên làm như thế, vì đây là
những điều trong các pháp môn khác nhau. Tôn giáo có hình thức của tôn giáo, còn
ở đây chúng tôi truyền một phần tu luyện của pháp môn của chúng tôi, trừ đệ tử
chuyên tu Pháp luân Đại pháp, ngoài ra không giảng hình thức tôn giáo, vậy nên
không phải là Phật giáo trong thời kỳ mạt pháp.
2)
Pháp trong Phật giáo chỉ là một phần nhỏ của Phật pháp, còn có nhiều đại pháp
cao thâm khác, trong các tầng thứ còn có pháp khác nhau. Thích ca Mâu ni giảng,
tu luyện có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có mấy pháp môn, chúng
chỉ có Thiên Đài Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ, Mật Tông v. v. ., mấy
pháp môn như vậy, chỉ là một con số lẻ tẻ! Vì vậy Phật giáo không thể nào khái
quát tiêu biểu cho toàn bộ Phật pháp được, nó chỉ là một phần nhỏ của Phật pháp.
Pháp luân Đại pháp của chúng ta cũng là một pháp môn trong tám vạn bốn nghìn
pháp môn, không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thủy cũng như Phật giáo
trong thời kỳ mạt pháp này, và cũng không có quan hệ gì với tôn giáo hiện nay.
3)
Phật giáo được sáng lập bởi Thích ca Mâu ni cách đây hai nghìn năm trăm năm
trước tại Ấn Độ cổ xưa. Lúc đó sau khi Thích ca Mâu ni khai công khai ngộ, ông
nhớ lại trong ký ức những điều mà trước kia chính ông đã tu luyện, đem chúng
truyền ra để độ người. Cho dù có bao nhiêu vạn kinh sách đã được xuất bản trong
pháp môn của ông, thật ra chỉ là ba chữ, đặc điểm pháp môn đó của ông là “Giới,
Định, Tuệ”. Giới, chính là giới cấm tất cả mọi dục vọng của người thường, bắt
buộc chư vị phải bỏ hết sự truy cầu lợi lộc, đoạn tuyệt mọi điều phàm tục trên
thế gian. Như thế thì tâm của họ sẽ biến thành trống không, không nghĩ gì nữa, thì
mới định xuống được, nó là tương phụ tương thành. Sau khi định lại được rồi, phải
ngồi thiền thực tu, nhờ định lực mà tu lên, đó chính là phần tu luyện chân
chính của pháp môn ấy. Họ cũng không giảng những điều trên thủ pháp, không cải
biến bản thể của chính họ. Họ chỉ tu cái công của tầng thứ cao thấp của họ, cho
nên chỉ một mạch tu tâm tính của họ, không tu thân mệnh thì cũng không giảng
đến sự diễn hóa của công. Đồng thời trong khi định họ tăng cường định lực của
họ, chịu đựng sự đau trong lúc ngồi thiền, để tiêu trừ nghiệp của họ. Tuệ, đó
chính là chỉ về con người đã được khai ngộ, đại trí đại tuệ. Nhìn thấy được
chân lý của vũ trụ, thấy được chân tướng của mỗi một không gian trong vũ trụ, thần
thông đại hiển. Khai tuệ, khai ngộ, cũng gọi là khai công.
4)
Thời ấy khi Thích ca Mâu ni sáng lập pháp môn này, đã có tám loại tôn giáo đồng
thời lưu truyền tại Ấn Độ. Có một tôn giáo có cội gốc vững vàng gọi là Bà La
môn giáo. Trong suốt cuộc đời của Thích ca Mâu ni, luôn phải đấu tranh về mặt
hình thái ý thức với các tôn giáo khác. Vì những điều của Thích ca Mâu ni
truyền là chính pháp, cho nên trong toàn bộ quá trình truyền pháp của ông, Phật
pháp mà ông truyền giảng càng ngày càng cường thịnh. Còn các tôn giáo khác càng
ngày càng suy yếu, kể cả Bà La môn giáo có cội gốc vững vàng cũng lâm vào trạng
thái bên bờ diệt vong. Nhưng sau khi Thích ca Mâu ni nhập niết bàn, các tôn
giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại, đặc biệt là Bà La môn giáo, cũng bắt đầu
hưng thịnh. Còn trong Phật giáo thì xuất hiện một loại tình huống như thế nào? Có
những tăng nhân được khai công, khai ngộ trong các tầng thứ khác nhau, nhưng
lại khai mở ở trong các tầng thứ khá thấp. Thích ca Mâu ni đã đạt đến tầng thứ
của Như Lai, mà nhiều tăng nhân không đạt đến tầng thứ đó.
5)
Phật pháp có sự hiển hiện khác nhau tại các tầng thứ khác nhau, nhưng càng cao
thì càng gần chân lý, càng thấp thì càng cách xa chân lý. Nên những tăng nhân
đó khai công khai ngộ ở tầng thứ thấp, họ dùng các cảnh tượng hiển hiện ra
trong vũ trụ mà họ thấy được ở tại tầng thứ của họ, những tình huống mà họ hiểu
được và những lý mà họ ngộ được, để giải thích những lời của Thích ca Mâu ni đã
từng giảng. Có nghĩa là pháp của Thích ca Mâu ni đã giảng, có tăng nhân đã tiến
hành giải thích thế này, giải thích thế nọ, còn một số tăng nhân lấy những gì
mà chính họ tham ngộ được xem như là lời của Thích ca Mâu ni để giảng, chứ
không giảng nguyên văn của Thích ca Mâu ni. Như thế khiến cho pháp của Phật
giáo thay hình đổi dạng, hoàn toàn không phải là pháp mà Thích ca Mâu ni đã
truyền. Cuối cùng làm cho Phật pháp trong Phật giáo tiêu mất ở Ấn Độ. Đây là
một bài học nghiêm trọng trong lịch sử, do đó Ấn Độ sau này ngược lại không còn
Phật giáo nữa. Trước khi tiêu mất, Phật giáo đã trải qua nhiều lần cải thiện, sau
cùng kết hợp với những điều của Bà La môn giáo, hình thành một tôn giáo ngày
nay tại Ấn Độ, gọi là Ấn Độ giáo. Cũng không thờ phật nào nữa, mà thờ cúng
những thứ khác, cũng không tin Thích ca Mâu ni nữa, nó là một tình huống như
thế.
6) Trong quá trình phát triển của Phật giáo, đã xuất hiện
mấy lần cải tổ khá lớn. Một lần vào khoảng thời gian ngắn sau khi Thích ca Mâu
ni không còn tại thế, có người căn cứ vào những lý ở tầng thứ cao của Thích ca
Mâu ni đã giảng, sáng lập Phật giáo Đại thừa. Cho rằng pháp mà Thích ca Mâu ni
công khai giảng là giảng cho những người thông thường nghe, dùng để tự giải
thoát bản thân, đạt đến quả vị La Hán, không giảng phổ độ chúng sinh, thì gọi
nó là Phật giáo Tiểu thừa. Các hòa thượng tại các nước Đông Nam Á còn bảo trì
phương pháp tu luyện nguyên thủy từ thời đại của Thích ca Mâu ni, ở Hán địa
chúng ta gọi đó là Phật giáo Tiểu thừa. Đương nhiên tự họ không thừa nhận, họ
cho rằng họ đã thừa kế những điều nguyên thủy sẵn có của Thích ca Mâu ni. Quả
đúng là như vậy, trên cơ bản họ đã thừa kế phương pháp tu luyện của thời đại
Thích ca Mâu ni.
7)
Phật giáo Đại thừa đã trải qua sự cải thiện này sau khi được truyền vào Trung
Hoa chúng ta, cố định tại Trung Hoa chúng ta, đó chính là Phật giáo ngày nay
lưu truyền tại Trung Hoa. Trên thực tế thì mọi điều đã hoàn toàn khác với Phật
giáo của thời đại Thích ca Mâu ni, từ cách trang phục đến toàn bộ trạng thái
tham ngộ lẫn cả quá trình tu luyện đều đã đổi khác. Phật giáo thời nguyên thủy
chỉ có Thích ca Mâu ni được thờ phụng như vị tổ tôn, nhưng Phật giáo hiện nay
xuất hiện khá nhiều chư phật và đại bồ tát, vả lại là tín ngưỡng đa phật. Xuất
hiện sự tín ngưỡng đối với nhiều Phật Như Lai, trở thành một Phật giáo đa phật,
như là Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Đại Nhật Như Lai v. v. cũng xuất hiện nhiều
đại bồ tát. Như vậy toàn bộ Phật giáo đã hoàn toàn khác hẳn với Phật giáo lúc
ban đầu khi Thích ca Mâu ni sáng lập ra.
8)
Trong thời kỳ đó còn xảy ra một quá trình cải tổ khác, do bồ tát Long Thọ
truyền ra một phương pháp mật tu, từ Ấn Độ ngang qua A Phú Hãn, sau đó tiến vào
Tân Cương rồi truyền vào Hán địa, đúng vào thời đại nhà Đường, nên được gọi là
Đường Mật. Vì Trung Hoa chúng ta vốn chịu ảnh hưởng Nho giáo rất lớn, quan niệm
đạo đức không giống như các dân tộc khác. Phương pháp tu luyện Mật Tông gồm có
những điều về nam nữ song tu, không được chấp nhận bởi xã hội thời bấy giờ, cho
nên Mật Tông bị tiêu trừ trong thời kỳ diệt phật giữa những năm Hội Xướng của
triều đại nhà Đường. Đường Mật vì vậy mà biến mất trên Hán địa chúng ta. Hiện
nay Nhật Bản có một môn phái gọi là Đông Mật, chính là học từ Trung Hoa chúng
ta vào thời đó, nhưng họ không có trải qua sự quán đỉnh. Theo Mật Tông giảng, nếu
chưa được quán đỉnh mà học những điều của Mật Tông, thì thuộc về trộm pháp, không
được thừa nhận là thân thọ. Còn một nhánh khác từ Ấn Độ qua Nepal truyền vào
Tây Tạng, gọi là Tạng Mật, từ đó được lưu truyền đến ngày nay. Trên cơ bản tình
huống của Phật giáo là như vậy, tôi tóm lược rất đơn giản về quá trình diễn
biến và phát triển của đạo này. Trong suốt quá trình phát triển toàn bộ của
Phật giáo, còn xuất hiện những môn tu luyện như Thiền Tông, sáng lập bởi Đạt Ma,
còn có Tịnh Độ Tông, Hoa Nghiêm Tông v. v. Tất cả đều dựa trên những điều của
Thích ca Mâu ni đã giảng lúc bấy giờ mà tham ngộ ra. Những điều đó cũng thuộc
về Phật giáo cải thiện. Có hơn mười mấy pháp môn như thế trong Phật giáo, đều
đi vào một hình thức của tôn giáo, cho nên chúng đều thuộc về Phật giáo.
9) Những tôn giáo được thành
lập ra trong thế kỷ này, không những chỉ trong thế kỷ này, cũng như nhiều giáo
phái mới đã được thành lập trên khắp thế giới mấy thế kỷ trước đây, những thứ
đó đại đa số đều thuộc về loại giả mạo. Các vị Đại giác độ người, đều có một
thiên quốc của chính họ. Thích ca Mâu ni, A Di Đà Phật và Đại Nhật Như Lai v. v.,
các vị Phật Như Lai đó họ cứu độ người, đều có một thế giới riêng do mình chủ
trì. Tại hệ Ngân Hà này của chúng ta, có hơn cả trăm thế giới như vậy. Pháp
luân Đại pháp của chúng ta cũng có Pháp luân thế giới.
10) Còn những pháp môn giả
đó họ cứu độ người thì độ về đâu? Họ không thể cứu độ người, những điều họ
giảng ra không phải là pháp. Đương nhiên, có một số người sáng lập ra tôn giáo,
mục đích ban đầu họ cũng không muốn trở thành yêu ma để phá hoại các chính giáo.
Họ khai công khai ngộ trong các tầng thứ khác nhau, thấy được một ít pháp lý, nhưng
họ kém xa đối với các vị Giác giả độ được người, họ rất thấp. Họ phát hiện được
một ít pháp lý, phát hiện một số điều ở trong người thường là sai, họ cũng dạy
người ta làm sao để làm việc tốt, lúc đầu, cũng không phản đối các tôn giáo
khác. Sau cùng người ta tin thờ họ, cho rằng những gì họ giảng đều có lý, rồi
càng ngày càng tin tưởng nơi họ, kết quả là những người này sùng bái họ, không
sùng bái tôn giáo nữa. Tâm danh lợi của chính họ vừa xuất hiện, kêu gọi quần
chúng phong cho họ danh hiệu gì đó, từ đó trở đi họ lập ra một tôn giáo mới. Tôi
nói với mọi người, chúng đều thuộc về tà giáo, dù chúng không hại người, chúng
cũng là tà giáo. Vì chúng đã can nhiễu người ta tin vào chính giáo, chính giáo
là độ người được, nhưng chúng thì không có khả năng. Với thời gian lâu dài dần
dần phát triển xuống, họ giấu diếm âm thầm làm những điều xấu. Gần đây có nhiều
loại như vậy cũng lưu truyền vào Trung Hoa chúng ta, ví dụ như thứ mà gọi là
pháp môn Quan Âm, chính là một trong những nhóm này. Vậy mọi người phải hết sức
chú ý, nghe nói tại Đông Nam Á có một quốc gia có hơn hai ngàn loại như vậy, tại
các quốc gia Đông Nam Á và các nước Tây phương khác, tin thứ gì cũng có, có một
nước công khai nói thẳng là Phù thủy giáo. Những điều này đều là yêu ma xuất
hiện trong thời kỳ mạt pháp. Thời kỳ mạt pháp không những chỉ nói về Phật giáo,
mà còn ám chỉ rất nhiều không gian từ một tầng thứ rất cao trở xuống đều đã bại
hoại. Mạt pháp không những chỉ nói đến mạt pháp của Phật giáo, mà là xã hội nhân
loại không có tâm pháp gò bó ràng buộc để duy trì đạo đức nữa.
No comments:
Post a Comment